Ngày Tìm Mộ Thứ Nhất: Quán Bà Nhờ, Cô Bé Mặc Áo Xanh


GS đứng dậy, lùi lại nửa mét, mặt vẫn hướng vào tường hoa. Cắm chiếc đũa cho thật thẳng rồi nhẹ nhàng đặt quả trứng lên. Mọi người vội chìa tay ra hứng sợ trứng rơi vỡ. Ô kìa! Kỳ lạ quá! Quả trứng nằm im trên đầu đũa tựa như có chất keo kết dính

Đúng hẹn, ngày 28 tháng 7, cả gia đình giáo sư Trần Phương tìm đường về La Tiến, cách Hà Nội chừng 100km. Đoàn chia làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ mà tìm. Có một lối hướng thẳng vào giữa làng La Tiến là trùng khớp với bản đồ. Có điều, đường từ bến đó đến nơi ghi là phần mộ lại rất ngắn, chỉ bằng 1/3 cự ly trong bản đồ. Băn khoăn, giáo sư Phương bèn điện thoại hỏi anh Nhã. Từ thành phố Hồ Chí Minh, anh Nhã bảo: “Cự ly do tôi ước lượng nên có thể không chính xác. Miễn là tìm thấy các dấu hiệu đã ghi, nhất là 4 tín hiệu nơi phần mộ”.

Cả nhà hướng mắt ra bốn phía quan sát kỹ lưỡng rồi săm soi đối chiếu với tấm bản đồ. Lần theo chỉ dẫn và các tín hiệu trên đường: trường học, đình làng, quán tạp hoá màu xanh dương, ngã tư, (tất cả đều trùng khớp với những tín hiệu anh Nhã cho trước), đoàn đến đất nhà ông Điển, một nông dân kiêm thợ nề.

Hai vợ chồng ông chỉ đoàn ra dải đất phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ (một khúc cua của con sông Luộc, nơi các xác chết thường bị cuốn vào, quạ đến ăn nhiều nên dân làng gọi là vụng Quạ), cách nhà ông chừng nửa cây số, nơi đó có 3 ngôi mộ vô thừa nhận. Mọi người sướng rơn nhưng khi đến xem xét kỹ lại không thấy một dấu hiệu nào như anh Nhã cho nên đành quay về nhà ông Điển.

Đứng trước cửa nhà, nhìn về chân đê sông Luộc, chếch về phía tây là ngôi nhà anh An. Nhà xây bằng gạch nhưng để ở chứ không bày biện bán hàng gì. Anh An cho biết: vợ anh có một gian hàng bán lòng lợn ở chợ La Tiến, sáng sớm gánh hàng ra bán song nếu ai cần mua tại nhà anh chị cũng bán. Như vậy cũng có thể tạm coi là quán hàng được.

Còn đất bà Nhường? Hỏi thăm cả làng, chẳng ai có tên như vậy. Chỉ có một bà lão tên Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà vốn trước đó cũng là một nữ du kích, hoạt động cách mạng cùng cô Khang. Cách đó mấy năm, bà có nhắn giáo sư Trần Phương về nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận. Bộ hài cốt có hàm răng màu trắng, giống hàm răng của cô Khang nên bà cho là hài cốt của người đồng đội mình.

Như vậy, những dấu hiệu dẫn đến ngôi mộ đã tìm thấy nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì chưa. Đành chờ đến 13h 30. Giữa trưa hè trời nắng hầm hập như đổ lửa, đoàn vẫn chia làm mấy nhóm đón lõng ở các ngả đường dẫn đến nhà ông Điển. 10 phút. Rồi 15 phút ngột thở trôi qua. Bỗng một tốp học sinh ào ào đạp xe từ cuối làng tới. Nhìn kỹ, thấy toàn con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái đi bộ tới. Mọi người liền giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần ngã tư, sau cái đình làng. Ba em săng sái dẫn ông Quỳnh, em ruột giáo sư Phương tới đó, còn một em đứng lại. Giáo sư Phương giật mình. Em gái ấy mặc áo màu xanh lá cây, có hai bông hoa to in trước ngực.

Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận, em chỉ mấy ngôi ở vườn chùa ngay cạnh chỗ đứng. Giáo sư Phương biết, đó là mộ của những người chết đói năm 1945. Em lại chỉ 3 ngôi mộ phía ngoài đê, cạnh vụng Quạ, nơi mà đoàn đã ra tìm từ sáng. Hỏi thêm em một số chuyện nữa nhưng cũng không thu thêm được thông tin quan trọng gì. Đến xế chiều, gần như mất phương hướng, giáo sư Phương lại gọi điện cho anh Nhã.

Anh hỏi:

“Có thấy lạch nước không? Có cái cống không?”. Anh Nhã hỏi cứ y như anh đang nhìn thấy vậy.

Rồi anh bảo:

“Bác hãy đi tìm ngôi nhà mà bốn mặt đều sơn màu trắng, phía trước đầy hoa đỏ”.

Cái cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, xế nhà ông Điển, chính là nơi giáo sư vừa ngồi nói chuyện với bé gái mặc áo hoa màu tím. Còn lạch nước? Hỏi ông Điển, hồi lâu ông mới sực nhớ ra: Ba mươi năm về trước, chính cái đầm sen là một vùng ruộng trũng. Bờ ruộng chạy song song với một con lạch dẫn nước qua cống cửa chùa vào ruộng mạ mà nay là đất ở của ông và mấy nhà xung quanh. Cuối những năm 60, để lấy đất bồi đắp con đê sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng thành đầm sen bây giờ. Bờ ruộng và cái lạch nước cũng biến mất trong lòng cái đầm sen ấy.

Mọi người ngó nghiêng khắp làng để tìm ngôi nhà tứ bề quét vôi màu trắng mà chẳng thấy. Chỉ thấy nhà màu vàng hoặc xám. Bỗng ông Tân Cương, một cộng sự của giáo sư Phương chỉ vào cái quán bên đường: “Hay là cái này?”. Đó là cái quán nước nhỏ, thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và cái chõng, trên bày bán mấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây, cả 4 mặt đều quét vôi trắng xoá.

Ông Tân Cương lý luận:“Một cái quán cũng có thể coi là nhà được lắm chứ”. Vậy còn hoa đỏ? Đảo mắt một vòng, anh Tân Cương reo khẽ. Nhìn theo hướng tay anh chỉ về phía đầm sen, mọi người sững sờ. Cả một biển hoa sen hồng thắm giữa trưa hè. Hương đưa ngào ngạt.

Chủ quán là một bà lão hom hem. Cụ cho biết tên là Mân. Nhưng đó là tên chồng, còn tên thật của bà là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi. Mọi người sục sạo tìm kiếm đến tối mịt mà chẳng thấy thêm tín hiệu gì đành quay về Hà Nội. Gọi điện cho anh Nhã,

Anh chấn an:

“Tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Bác nên tìm tiếp tục. Hôm nay chưa thấy thì ngày mai lại đi. Chỉnh mộ là cả một hành trình đầy vất vả, không thể một lần mà trúng ngay được”.

Rồi anh chỉ dẫn tiếp:

“8h sáng mai bác phải có mặt ở cái quán quét vôi màu trắng ấy. Bác hoặc con bác hãy thắp 20 nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8h30, có một con chó vàng nâu đứng cách đó chừng 10m. Nó nhìn bác một lát rồi đi. Thỉnh thoảng, nó ngoái đầu lại xem bác có đi theo nó không. Bác cứ đi theo và giữ khoảng cách. Đi chừng hơn 100m, con chó sẽ dừng lại, hít đất rồi bới. Bác hãy nhớ lấy chỗ đó, quan sát kỹ, tìm những dấu hiệu trên phần mộ như đã ghi trong bản đồ”.

Ngừng một lát, anh Nhã dặn tiếp:

“Nếu không thấy con chó xuất hiện thì chờ đến khoảng 9h, tìm kiếm quanh vùng sẽ thấy một con chó vàng nằm bệt như ốm. Đánh dấu lấy chỗ ấy mà đào. Đào thấy thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì điện thoại lại, tôi sẽ chỉ dẫn tiếp”.

Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người (Bộ môn cận tâm lý)

Chia Sẻ